Vợ chồng A Phủ là truyện kể về cuộc đời của hai nhân vật Mị và A Phủ. Đầu tiên là kể về quá trình trở thành con dâu gạt nợ và cuộc sống của Mị trong nhà thống lí Pá Tra. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị, không đủ tiền cưới phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mẹ Mị đã chết, bố Mị đã già mà món nợ mỗi năm phải trả lãi một nương ngô vẫn còn. Năm đó, ở Hồng Ngài, Tết đến, A Sử con trai thống lí Pá Tra, lừa bắt cóc được Mị về làm vợ cúng trình ma. Mị trở thành con dâu gạt nợ, khổ hơn con trâu con ngựa, lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Mị toan ăn lá ngón tự tử. Thương cha già, Mị chết không đành. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Một cái Tết nữa lại đến. Mị thấy lòng phơi phới. Cô uống rượu ừng ực từng bát, rồi chuẩn bị lấy váy áo đi chơi. A Sử trói đứng Mị bằng một thúng sợi đay. Tiếp theo là câu chuyện của đứa trừ nợ là A Phủ. A Phủ vốn là con người tự do của núi rừng: mồ côi từ nhỏ, bị bán cho người Thái dưới cánh đồng, không chịu ở dưới đồng thấp, trốn lên núi lưu lạc ở Hồng Ngài. A Phủ vì tội đánh con quan nên bị làng phạt vạ một trăm bạc trắng. A Phủ trở thành người ở trừ nợ cho Pá Tra. Năm đó rừng động, A Phủ để hổ bắt mất một con bò. Pá Tra đã trói đứng anh vào một cái cọc bằng một cuộn dây. Mấy ngày đêm trôi qua, A Phủ sắp chết đau, chết đói, chết rét thì được Mị cắt dây trói cứu thoát. Hai người trốn đến Phiềng Sa rồi nên vợ nên chồng. A Phủ gặp cán bộ A Châu, kết nghĩa làm anh em, được giác ngộ trở thành chiến sĩ du kích đánh Pháp.
Truyện Vợ chồng A Phủ có cách trần thuật khá độc đáo. Lúc đầu, một giọng kể êm ái để mở ra khung cảnh Tây Bắc với chân dung nhân vật: Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sơi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Mấy câu kể mở đầu là sự bắt giọng tạo nên cảm hứng để tác giả đi vào mô tả thế giới cuộc sống của con người cùng với những biến đổi nội tâm nhân vật. Khi đọc, cần chú ý âm hưởng của đoạn mở đầu này để đi vào khám phá thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Hình ảnh cô gái cúi mặt, mặt buồn rười rượi sẽ mở ra nhiều điều lí thú, thu hút sự chú ý của người đọc. Vào sâu trong tác phẩm, lối trần thuật nửa trực tiếp, nhà văn miêu tả những diễn biến bên trong nhân vật theo kiểu nhân vật tự bộc lộ, nhân vật tự nói ra chứ không phải tác giả. Phần sau, câu chuyện được kể lại chủ yếu thông qua cách cảm, cách nghĩ của nhân vật , tức là lối kể chuyện theo quan điểm nhân vật. Như vậy, nhân vật Mị là hệ quy chiếu của quan điểm tác giả. Vì thế, giọng điệu trong tác phẩm, trừ những đoạn tả cảnh, tả phong tục, còn phần lớn lời văn đều thông qua dòng tâm tư nhân vật. Đọc tác phẩm, cần phải đọc chậm rãi, thể hiện giọng đọc như chính suy nghĩ của Mị.
Bạn đang xem: Michelhieu's Blog
Nhân vật Mị có hai đặc điểm về tính cách: vui tươi, hồn nhiên, yêu đời và buồn khổ, không quan tâm gì đến cuộc sống xung quanh. Mỗi tính cách này xuất hiện trong một hoàn cảnh nhất định. Khi sống với bố, khi nghe tiếng sáo gọi bạn đầu làng, trong lòng Mị phơi phới, những lúc đó, Mị cảm thấy trẻ trung hẳn lên. Nhưng phần lớn thời gian còn lại, cuộc sống của mị buồn khổ, tối tăm. Vì thế, tác giả giới thiệu chân dung nhân vật ở đầu tác phẩm cũng là để hướng đến thể hiện tính cách của Mị trong hoàn cảnh sống ngục tù ở nhà thống lí Pá Tra. Phần kể về cuộc đời Mị lúc chưa làm con dâu gạt nợ có tính chất điểm qua để lí giải cái nguyên nhân Mị trở thành con dâu nhà thống lí Pá Tra. Phần còn lại của tác phẩm là để kể về cuộc sống của Mị ở trong nhà thống lí. Không gian cuộc sống của nhân vật Mị, ngoài những lúc đi làm trên nương trên rẫy thì chủ yếu là ở trong nhà thống lí. Cuộc sống của Mị giống như ngục tù, cái buồng Mị nằm thì giống như cái xà lim: Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Công việc của Mị lặp đi lặp lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suối đời như thế. Sống trong ngôi nhà này, Mị cũng bị đối xử chẳng khác gì con vật, chồng Mị muốn trói hay muốn đánh gì thì trói, thì đánh, Mị phải cúi đầu chấp nhận. Như vậy, cuộc sống của Mị, số kiếp của con dâu gạt nợ chính là cuộc sống của kẻ nô lệ, hình thức bóc lột sức lao động của bọn lang ti thổ đạo. Câu chuyện đau buồn của cô con dâu gạt nợ này đã nói lên thân phận đau khổ của người nông dân nghèo, của người phụ nữ nghèo miền núi.
Nhân vật A Phủ xuất hiện lúc Mị đang bị A Sử trói đứng ở trong buồng. Khi người chị dâu vừa mở trói để Mị đi hái thuốc đắp cho chồng thì mới biết được sự việc A Sử bị đánh, người đánh là A Phủ. A Phủ bị trói khiêng về ném xuống nhà thống lí như khiêng con lơn. A Phủ bị đánh đập tàn bạo trong vụ xử kiện lạ lùng. Kết quả vụ xử kiện đó, A Phủ nợ thống lí Pá Tra 100 đồng bạc trắng và phải vay nợ trước sự chứng kiến của con ma nhà thống lí, để rồi trở thành đứa ở trừ nợ như lời thống lí: Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền già thì tai bắt mày làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Lai lịch A Phủ được kể lại sau đó. Một con người khỏe mạnh, tự do như A Phủ rồi cũng không thể sống được tự do mà đã biến thành đứa ở trừ nợ của nhà thống lí Pá Tra. A Phủ phãi làm lụng vất vả: đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình. Khi bị hổ bắt mất bò thì A Phủ phải chịu trói cho đến khi nào A Sử bắt được con hổ về.
Cả Mị và A Phủ đều là nạn nhân của chế độ thống trị ở miền núi. Mị và A Phủ đều là kẻ nô lệ, dù mỗi người đến nhà thống lí bằng con đường khác nhau, có hoàn cảnh sống khác nhau, nhưng khi đến đây họ đều phải làm con trâu con ngựa nhà thống lí, họ đều bị đối xử như những con vật, họ được trình ma nhà thống lí và trở thành ma nhà nó, đợi ngày rũ xương ở đây. Chế độ phong kiến đã lợi dụng chính quyền, tục quyền, thần quyền, phu quyền để biến những con người tài hoa, khỏe mạnh, phóng khoáng trở thành những kẻ nô lệ, mang kiếp sống ngục tù và bị đối xử như những con vật. Qua thân phận của hai nhân vật này, tác phẩm đã tố cáo sự tàn bạo của chế độ phong kiến miền núi đối với cuộc sống, số phận người dân miền núi trước cách mạng.
Nội dung tư tưởng truyện không chỉ có thế, mà thông qua cuộc đời và số phận đau thương của nhân vật, nhà văn thể hiện sự phát hiện sức sống tiềm tàng của người dân miền núi Tây Bắc, yếu tố quan trọng của con đường giải phóng số phận con người và đất nước.
Mị là cô gái có nhan sắc và tâm hồn, yêu đời, chăm chỉ, khao khát hạnh phúc và hiếu thảo. Đó là những phẩm chất vốn có của một con người đáng được hưởng hạnh phúc. Đồng thời những yếu tố phẩm chất, tâm hồn của nhân vật Mị là cơ sở của sự tiềm tàng sức sống, giúp nhân vật vượt qua những ràng buộc của các thế lực như chính quyền, phu quyền, thần quyền trong xã hội phong kiến miền núi. Trước khi bị bán cho nhà thống lí Pá tra, Mị đã nói với bố trước lời đề nghị xóa nợ của thống lí Pá Tra: Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu. Mặc dù Mị chưa bước chân đến cửa nhà giàu nhưng đã biết cuộc sống làm dâu nhà giàu nó tủi nhục biết nhường nào. Lời van xin tội nghiệp của một cô gái đâu có tác dụng gì. Người cha thương con nhưng biết làm sao được. Thống lí Pá Tra vẫn cho người đi bắt Mị về cúng ma nhà nó. Người ta đánh lừa cô gái tội nghiệp mới lớn đó và lợi dụng tục bắt dâu để bắt đi. Thương bố, tủi nhục trong thân phận con dâu gạt nợ, Mị trốn về lạy chào bố để đi về bên kia thế giới. Nhưng Mị chết không được. Mị chết thì ai làm nương ngô giã nợ người ta. Lần phản kháng này đã không thành, Mị trở thành công cụ lao động nhà thống lí. Bó Mị chết rồi nhưng Mị không nghĩ đến việc bỏ trốn hay tự tử. Mị trở thành một con người vô hồn vô cảm, suốt ngày chỉ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ách áp bức của chế độ phong kiến miền núi có thể làm cho con người bị tê liệt sự sống để biến thành thứ công cụ biết nói của nó. Nhưng Mị suốt ngày cũng không nói năng gì, mà chỉ lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Mị tưởng mình đã trở thành con trâu, con ngựa rồi, không còn ý niệm về thời gian, không hy vọng, không mong đợi.
Xem thêm : Oracle DBA
Có lẽ cuộc đời của Mị sẽ như thế cho đến ngày rũ xương. Tấm lòng thương yêu của nhà văn đối với những người dân lao động Tây Bắc không cho phép nhà văn kết thúc như vậy. Tô Hoài đã dựng nên một không gian bên ngoài như là sự đối lập với không gian nhầy nhụa những tội lỗi của ngôi nhà thống lí.
Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta đã thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái xong, không kể ngày tháng nào. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gainh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Trong các làng Mèo đỏ, nhưng chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đó như những con bướm sặc sỡ…
Không gian vui nhộn và tươi đẹp, cùng với những tiếng hát gọi bạn, tiếng sáo đã len lỏi vào ngôi nhà thống lí, đến với cô gái tội nghiệp đang ngồi ở nhà. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Những â thanh đó chưa thể dựng Mị dậy để đi ra ngoài, tham gia vào cuộc chơi. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uốn ực từng bát. Lúc đó, cô Mị ngày nào đã trở về trong tâm hồn tưởng chừng như khô cứng này. Những kí ức đẹp đẽ hiện về làm cho Mị sống ngây ngất trong trạng thái say rượu. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Khát vọng hạnh phúc tưởng chừng đã tan biến trong tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, bây giờ lại được cháy lên, thật nồng nàn và xót xa, trong đêm tình mùa xuân đầy ắp tiếng sáo, tiếng hát, là những âm thanh của tuổi trẻ và tình yêu. Giữa lúc A Sử đi đâu về đang sửa soạn thhay áo để đi chơi, thì Mị cũng chuẩn bị đi chơi. Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, sắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. Câu văn ngắn, miêu tả từng hành động của nhân vật tưởng chừng rất tự nhiên và đơn giản đó lại là một sự vận động ghê gớm trong tâm hồn Mị để đi đến quyết định: bất chấp tất cả, phải đi chơi. Nhưng A Sử, người chồng không có lòng với nhau vẫn ở với nhau này đã trói Mị. Miêu tả hành động trói vợ của A Sử cũng bằng số câu miêu tả hành động chuẩn bị đi chơi của Mị. A Sử cũng không hỏi thêm nữa. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa.
Nếu khi bị trói, Mị đau khổ khóc lóc thì không còn chuyện gì để nói nữa. Ở đây, để khẳng định sức sống tiềm tàng của nhân vật, Tô Hoài tiếp tục để cho nhân vật sống trong không khí tình xuân ấy. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Nhà văn đã nhập vào trong những tiềm thức chập chờn để miêu tả những khát vọng sống, hạnh phúc tiềm ẩn trong đáy sâu tâm hồn của con người tưởng chừng như không còn khái niệm sống. Nhà văn vừa để cho nhân vật sống lại những hồi ức đẹp đẽ vừa để nhân vật cảm thức về thân phận của mình. Sau một đêm bị trói nhưng được sống bằng cuộc sống của con người được hồi phục bởi vết thương tâm hồn thì bây giờ Mị đã tỉnh dậy vào một buổi sáng âm sâm trong cái nhà gỗ rộng, cái nhà mà ở đó nhười ta quen trói, quen đánh, quen chửi và đã từng có người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ đến chuyện này, Mị sợ quá, có nghĩa là Mị cũng sợ chết, Mị cũng muốn sống, trong Mị vẫn còn khát vọng sống.
Cứ mỗi lần sức sống trong con người Mị trỗi dậy, Mị lại bị đẩy xuống sâu hơn nữa trong đau thương. Lần đầu Mị muốn chết nhưng rồi không chết được và bị đày đọa cho đến mất hết ý niệm sống. Khi được tiếng sáo của đêm tình mùa xuân đánh thức, Mị muốn đi chơi thì bị A Sử trói một cách thê thảm. Mị dường như sống một cuộc sống bản năng: đêm đêm Mị ngồi sưởi lửa, mặc dù có lần A Sử đi chơi về thấy Mị ngồi đấy, đánh Mị ngã ngay xuống bếp nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước. Ngồi bên bếp lửa ấm nhưng lòng Mị vẫn băng giá. Mị thấy A Phủ bị trói nhiều đêm liền giữa cái lạnh của miền núi Tây Bắc nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Chỉ khi thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại trên khuôn mặt của người Mị tưởng đã chết rồi thì Mị mới bừng tỉnh: Trời ơi! Nó bắt trói đứng người ta đến chết. Dòng nước mắt của A Phủ, con người khỏe mạnh của núi rừng đang tuyệt vọng, đã đánh thức những cảm thức về nỗi đau và cái chết trong con người Mị. Một cuộc đấu tranh bên trong Mị giữa sống và chết trong một thời gian không biết bao lâu, nhưng lúc ấy Đám than đã vạc hẳn lửa,… Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, và Mị đã đi đến hành động cắt dây trói cho A Phủ. Khi dây trói đã cắt đứt tác giả đã để Mị đứng lặng trong bóng tối, rồi sau đó mới để cho Mị vụt chạy ra, băng đi, chạy theo A Phủ. Mị đứng lại để bứt sợi dây đang trói mình, thứ dây trói vô hình bền chắc ghê gớm, n1o trói người dân Tây Bắc nghìn đời nay, nó trói người ta cho đến chết, đó là dây trói thần quyền mà Mị thừa biết ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Chính sức sống tiềm tàng trong con người Mị, khi có những tác nhân bên ngoài, nhất là khi bắt được tín hiệu giai cấp (giọt nước mắt của A Phủ) thì nó sẽ trỗi dậy, phá tung dây trói đó để giải phóng số phận mình. Đó là ý tưởng mà nhà văn muốn chia sẻ với người đọc.
A Phủ, một người mà nhiều cô gái mơ ước “Được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu” thì bị trói như trói lợn, khiêng về nhà thống lí để xử kiện vì tội đánh con quan. Miêu tả cảnh xử kiện kì lạ này, nhà văn đã am hiểu một tập quán lạ của một xứ sở có nhiều cây thuốc phiện là khấn trình ma. Đến khi không phải quỳ, không phải bị đánh nữa, A Phủ được đứng lên, nhưng không phải bị đánh và nộp phạt là xong mà là để tự tay cầm dao, chân đau bước tập tễnh đi làm thịt lợn hầu chính những kẻ đã đánh mình, hầu những kẻ đã làm cho mình trở thành nô lệ trong nhà thống lí. Nhân vật này cũng được Tô Hoài xây dựng để thể hiện tiềm tàng sức sống. Khi còn nhỏ, A Phủ đã bỏ trốn lên vùng cao. Trước sự ngạo ngược của kẻ ý thế con quan làm tàng, A Phủ hành động quyết liệt: ném con quay rất to vào mặt A Sử, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp (A Phủ đánh bằng cả scứ mạnh của lòng căm ghét của mình và của chính tác giả nữa). Trong cuộc xử kiện, bị đánh, bị chửi nhưng A Phủ vẫn gan góc không hề kêu rên, im như cái tượng đá. Khi hổ ăn mất bò, A Phủ đòi đi bắt cho được con hổ (chúa sơn lâm của núi rừng). Khi bị trói, trong đêm, A Phủ đã day đứt hai vòng dây trói. Khi được cắt dây trói, A Phủ ngã quỵ xuống, nhưng rồi vùng dậy chạy đi. Tiềm tàng sức sống ở A Phủ là tiềm tàng sức sống thể chất, và sức sống này khi được kết hợp với tiềm tàng sức sống tâm hồn (ở nhân vật Mị) thì nó mới có khả năng vượt thoát số phận.
Trong tác phẩm có nhiều chi tiết ýnghĩa, nhưng chi tiết mang ý nghĩa chủ đề nhất là chi tiết sơi dây trói. Tác giả nhắc lại nhiều lần sợi dây trói. Sợi dây trói từ bàn tay của kẻ thống trị trói những người dân vô tội một cách không thương xót, trói cho đến chêt. Nhưng điều đáng lưu ý ở đây là không phải sợi dây trói bình thường, mà là những sợi dây trói chính ở nạn nhân của nó tạo nên. A Sử dùng thắt lưng (sợi dây phu quyền) chỉ trói được hai tay Mị, nhưng thúng dây đay mà ngày ngày Mị phải tước, phải xe sợi và cả mái tóc dài nữa mới trói Mị không thể cử động được. A Phủ bị trói khi tự tay mình chôn cọc và được trói bằng những sợi dây mây rắn chắc do A Phủ lấy ở trong rừng về. A Phủ đã day đứt hai vòng dây trói nhưng không thoát được cái thòng lọng mà thống lí Pá Tra quàng thêm vào cổ. Như vậy, trong những dây trói để trói buộc người dân miền núi Tây Bắc, có cả sợi dây của chính họ, sợi dây của sự lạc hậu, mê tín dị đoan, của những hủ tục mà tự họ đặt ra và cố giữ lấy. Người dân Tây Bắc muốn tự giải phóng mình và đến với cách mạng htì trước hết phải tự mình cắt những dây trói đó, giúp nhau cắt bỏ dây trói đó.
Xem thêm : Chế Trung Hiếu
Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn đặc sắc, thể hiện tài năng và sự hiểu biết về con người và cuộc sống người dân Tây Bắc của Tô Hoài
Việc xây dựng nhân vật, Tô Hoài đã thể hiện được những tính cách khác nhau của hai nhân vật có số phận và hoàn cảnh giống nhau. Để làm được điều này, mỗi nhân vật phải có cách xây dựng riêng. Nhân vật Mị thì chủ yếu miêu tả về tâm lí, còn hình dạng bên ngoài chỉ phác họa những nét lặp đi lặp lại: không nói, cúi mặt, mặt buồn rười rượi, và hành động cũng được lặp lại (các công việc quanh năm suốt tháng trong nhà thống lí). Nhân vật A Phủ thì ngược lại, chủ yếu là được miêu tả ngoại hình, cùng với những hành động dứt khoát, mạnh mẽ.
Ngòi bút tả cảnh thiên nhiên, tả phong tục sinh hoạt của tác giả cũng hết sức đặc sắc. Bằng những nét chấm phá, cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc hiện lên giàu màu sắc và đường nét (những chiếc váy hoa đem phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ,…). Đặc biệt là tả cảnh phong tục sinh hoạt, từ miêu tả cảnh ngày Tết, cho đến cảnh xử kiện đều hiện lên chân thật và sinh động.
Nghệ thuật kể chuyện cũng rất độc đáo. Cách giới thiệu gây sự chú ý ban đầu để đi vào câu chuyên một cách tự nhiên, nêu sự việc trước rồi kể lai lịch sau, việc dẫn dắt các tình tiết khéo léo làm cho mạch truyện liên tục mà không rối, không đứt quãng.
Ngôn ngữ của Tô Hoài cũng rất chọn lọc và sáng tạo. Lối văn giàu tạo hình, có chỗ thoáng qua, nhưng có chỗ như quay cận cảnh làm cho sự việc diễn ra thật sinh động. Tô Hoài còn am hiểu cả lời ăn tiếng nói của người dân miền núi Tây Bắc, nhất là ở những đoạn đối thoại đã làm cho câu chuyện được kể lại hết sức chân thật.
Cuối cùng phải kể đến giọng điệu trần thuật của tác phẩm (như đã nói từ đầu). Trong tác phẩm, Tô Hoài sử dụng lối kể chuyện với nhịp kể chậm, giọng trầm lắng để thể hiện sự cảm thông, yêu mến nhân vật của mình. Đặc biệt, nhà văn đã nhập vào dòng tâm tư nhân vật, sử dụng câu văn nửa trực tiếp để thâm nhập vào dòng ý nghĩ, tiếng nói bên trong, để vừa bộc lộ nội tâm nhân vật, vừa tạo được sự đồng cảm của mình đối với nhân vật.
(HDLVDV12)
Nguồn: https://ppe.edu.vn
Danh mục: Blog